Jimmy Carter, former US president and Nobel Peace Prize recipient, dead at 100
December 30, 2024
Jimmy Carter, the earnest Georgia peanut farmer who as U.S. president struggled with a bad economy and the Iran hostage crisis but brokered peace between Israel and Egypt and later received the Nobel Peace Prize for his humanitarian work, died at his home in Plains, Georgia, on Sunday, the Carter Center said. He was 100.
- Jimmy Carter, người nông dân trồng đậu phộng ở Georgia chân thành, người đã phải đối mặt với nền kinh tế khó khăn và cuộc khủng hoảng con tin Iran khi làm tổng thống Mỹ, nhưng đã môi giới hòa bình giữa Israel và Ai Cập và sau đó nhận giải Nobel Hòa Bình vì công việc nhân đạo của mình, đã qua đời tại nhà riêng ở Plains, Georgia, vào Chủ nhật, Trung tâm Carter cho biết. Ông thọ 100 tuổi.
"My father was a hero, not only to me but to everyone who believes in peace, human rights, and unselfish love," said Chip Carter, the former president’s son. "My brothers, sister, and I shared him with the rest of the world through these common beliefs. The world is our family because of the way he brought people together, and we thank you for honoring his memory by continuing to live these shared beliefs."
- "Cha tôi là một anh hùng, không chỉ đối với tôi mà còn đối với tất cả những ai tin vào hòa bình, nhân quyền và tình yêu vị tha," Chip Carter, con trai cựu tổng thống, nói. "Anh chị em tôi và tôi đã chia sẻ ông với phần còn lại của thế giới thông qua những niềm tin chung này. Thế giới là gia đình của chúng tôi nhờ cách ông kết nối mọi người lại với nhau, và chúng tôi cảm ơn bạn vì đã tôn vinh ký ức của ông bằng cách tiếp tục sống theo những niềm tin chung này."
A Democrat, he served as president from January 1977 to January 1981 after defeating incumbent Republican President Gerald Ford in the 1976 U.S. election. Carter was swept from office four years later in an electoral landslide as voters embraced Republican challenger Ronald Reagan, the former actor and California governor.
- Là một đảng viên Dân chủ, ông đã phục vụ chức vụ tổng thống từ tháng 1 năm 1977 đến tháng 1 năm 1981 sau khi đánh bại tổng thống đương nhiệm thuộc đảng Cộng hòa Gerald Ford trong cuộc bầu cử Mỹ năm 1976. Carter đã bị loại khỏi văn phòng bốn năm sau đó trong một cuộc bầu cử áp đảo khi cử tri chấp nhận đối thủ đảng Cộng hòa Ronald Reagan, cựu diễn viên và thống đốc California.
Carter lived longer after his term in office than any other U.S. president. Along the way, he earned a reputation as a better former president than he was a president - a status he readily acknowledged.
- Carter sống lâu hơn bất kỳ tổng thống Mỹ nào khác sau nhiệm kỳ của mình. Trên đường đi, ông đã có danh tiếng là một cựu tổng thống tốt hơn ông là một tổng thống - một trạng thái mà ông sẵn lòng thừa nhận.
His one-term presidency was marked by the highs of the 1978 Camp David accords between Israel and Egypt, bringing some stability to the Middle East. But it was dogged by an economy in recession, persistent unpopularity and the embarrassment of the Iran hostage crisis that consumed his final 444 days in office.
- Nhiệm kỳ tổng thống một nhiệm kỳ của ông được đánh dấu bởi các đỉnh cao của các hiệp định Camp David năm 1978 giữa Israel và Ai Cập, mang lại một số ổn định cho Trung Đông. Nhưng nó bị đeo bám bởi một nền kinh tế suy thoái, sự không phổ biến dai dẳng và sự bối rối của cuộc khủng hoảng con tin Iran đã tiêu hao 444 ngày cuối cùng của ông trong văn phòng.
In recent years, Carter had experienced several health issues including melanoma that spread to his liver and brain. Carter decided to receive hospice care in February 2023 instead of undergoing additional medical intervention. His wife, Rosalynn Carter, died on Nov. 19, 2023, at age 96. He looked frail when he attended her memorial service and funeral in a wheelchair.
- Trong những năm gần đây, Carter đã trải qua một số vấn đề về sức khỏe bao gồm u ác tính đã lan đến gan và não. Carter quyết định nhận chăm sóc hospice vào tháng 2 năm 2023 thay vì trải qua thêm can thiệp y tế. Vợ ông, Rosalynn Carter, qua đời vào ngày 19 tháng 11 năm 2023, ở tuổi 96. Ông trông yếu ớt khi tham dự lễ tưởng niệm và tang lễ của bà trên xe lăn.
Carter left office profoundly unpopular but worked energetically for decades on humanitarian causes. He was awarded the Nobel Peace Prize in 2002 in recognition of his "untiring effort to find peaceful solutions to international conflicts, to advance democracy and human rights, and to promote economic and social development."
- Carter rời chức vụ với sự không phổ biến sâu sắc nhưng đã làm việc nhiệt tình trong nhiều thập kỷ về các nguyên nhân nhân đạo. Ông đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 2002 để ghi nhận "nỗ lực không mệt mỏi của ông nhằm tìm ra giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột quốc tế, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, và thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội."
Carter had been a centrist as governor of Georgia with populist tendencies when he moved into the White House as the 39th U.S. president. He was a Washington outsider at a time when America was still reeling from the Watergate scandal that led Republican Richard Nixon to resign as president in 1974 and elevated Ford from vice president.
- Carter đã là một người trung dung khi làm thống đốc Georgia với khuynh hướng dân túy khi ông bước vào Nhà Trắng với tư cách là tổng thống thứ 39 của Mỹ. Ông là một người ngoài cuộc ở Washington vào thời điểm nước Mỹ vẫn còn đang choáng váng sau vụ bê bối Watergate dẫn đến việc tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon từ chức vào năm 1974 và nâng Ford từ phó tổng thống lên.
"I'm Jimmy Carter and I'm running for president. I will never lie to you," Carter promised with an ear-to-ear smile.
- "Tôi là Jimmy Carter và tôi đang tranh cử tổng thống. Tôi sẽ không bao giờ nói dối bạn," Carter hứa với một nụ cười rộng.
Asked to assess his presidency, Carter said in a 1991 documentary: "The biggest failure we had was a political failure. I never was able to convince the American people that I was a forceful and strong leader."
- Khi được hỏi để đánh giá nhiệm kỳ tổng thống của mình, Carter nói trong một bộ phim tài liệu năm 1991: "Thất bại lớn nhất mà chúng tôi đã có là một thất bại chính trị. Tôi chưa bao giờ có thể thuyết phục người dân Mỹ rằng tôi là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và quyết đoán."
Despite his difficulties in office, Carter had few rivals for accomplishments as a former president. He gained global acclaim as a tireless human rights advocate, a voice for the disenfranchised and a leader in the fight against hunger and poverty, winning the respect that eluded him in the White House.
- Dù gặp nhiều khó khăn trong nhiệm kỳ, Carter có ít đối thủ về thành tựu khi là cựu tổng thống. Ông đã được ca ngợi toàn cầu là một nhà hoạt động nhân quyền không mệt mỏi, một tiếng nói cho những người bị tước quyền và một lãnh đạo trong cuộc chiến chống đói nghèo và đói khát, giành được sự tôn trọng mà ông không đạt được khi ở Nhà Trắng.
Carter won the Nobel Peace Prize in 2002 for his efforts to promote human rights and resolve conflicts around the world, from Ethiopia and Eritrea to Bosnia and Haiti. His Carter Center in Atlanta sent international election-monitoring delegations to polls around the world.
- Carter đã giành giải Nobel Hòa Bình năm 2002 cho những nỗ lực của ông trong việc thúc đẩy nhân quyền và giải quyết xung đột trên khắp thế giới, từ Ethiopia và Eritrea đến Bosnia và Haiti. Trung tâm Carter của ông ở Atlanta đã gửi các phái đoàn giám sát bầu cử quốc tế đến các cuộc bỏ phiếu trên khắp thế giới.
A Southern Baptist Sunday school teacher since his teens, Carter brought a strong sense of morality to the presidency, speaking openly about his religious faith. He also sought to take some pomp out of an increasingly imperial presidency - walking, rather than riding in a limousine, in his 1977 inauguration parade.
- Một giáo viên trường Chúa nhật Baptist miền Nam từ khi còn thiếu niên, Carter mang một ý thức đạo đức mạnh mẽ vào nhiệm kỳ tổng thống, nói công khai về đức tin tôn giáo của mình. Ông cũng tìm cách giảm bớt sự phô trương của một nhiệm kỳ tổng thống ngày càng đế quốc - đi bộ, thay vì đi xe limousine, trong cuộc diễu hành nhậm chức năm 1977 của mình.
The Middle East was the focus of Carter's foreign policy. The 1979 Egypt-Israel peace treaty, based on the 1978 Camp David accords, ended a state of war between the two neighbors.
- Trung Đông là trọng tâm của chính sách đối ngoại của Carter. Hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel năm 1979, dựa trên các hiệp định Camp David năm 1978, chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai nước láng giềng.
Carter brought Egyptian President Anwar Sadat and Israeli Prime Minister Menachem Begin to the Camp David presidential retreat in Maryland for talks. Later, as the accords seemed to be unraveling, Carter saved the day by flying to Cairo and Jerusalem for personal shuttle diplomacy.
- Carter đã đưa Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin đến khu nghỉ dưỡng tổng thống Camp David ở Maryland để đàm phán. Sau đó, khi các hiệp định có vẻ đang tan rã, Carter đã cứu vãn tình hình bằng cách bay đến Cairo và Jerusalem để thực hiện ngoại giao con thoi cá nhân.
The treaty provided for Israeli withdrawal from Egypt's Sinai Peninsula and establishment of diplomatic relations. Begin and Sadat each won a Nobel Peace Prize in 1978.
- Hiệp ước này quy định việc Israel rút khỏi bán đảo Sinai của Ai Cập và thiết lập quan hệ ngoại giao. Begin và Sadat mỗi người đã giành được giải Nobel Hòa Bình năm 1978.
By the 1980 election, the overriding issues were double-digit inflation, interest rates that exceeded 20% and soaring gas prices, as well as the Iran hostage crisis that brought humiliation to America. These issues marred Carter's presidency and undermined his chances of winning a second term.
- Đến cuộc bầu cử năm 1980, các vấn đề chủ yếu là lạm phát hai con số, lãi suất vượt quá 20% và giá xăng tăng vọt, cũng như cuộc khủng hoảng con tin Iran đã mang lại sự nhục nhã cho nước Mỹ. Những vấn đề này đã làm hoen ố nhiệm kỳ tổng thống của Carter và làm suy yếu cơ hội giành nhiệm kỳ thứ hai của ông.
Hostage crisis
- Cuộc khủng hoảng con tin
On Nov. 4, 1979, revolutionaries devoted to Iran's Ayatollah Ruhollah Khomeini had stormed the U.S. Embassy in Tehran, seized the Americans present and demanded the return of the ousted shah Mohammad Reza Pahlavi, who was backed by the United States and was being treated in a U.S. hospital.
- Vào ngày 4 tháng 11 năm 1979, những người cách mạng trung thành với Ayatollah Ruhollah Khomeini của Iran đã xông vào Đại sứ quán Mỹ tại Tehran, bắt giữ những người Mỹ có mặt và yêu cầu trả lại shah Mohammad Reza Pahlavi bị lật đổ, người được Mỹ hậu thuẫn và đang được điều trị tại một bệnh viện Mỹ.
The American public initially rallied behind Carter. But his support faded in April 1980 when a commando raid failed to rescue the hostages, with eight U.S. soldiers killed in an aircraft accident in the Iranian desert.
- Công chúng Mỹ ban đầu ủng hộ Carter. Nhưng sự ủng hộ của ông suy yếu vào tháng 4 năm 1980 khi một cuộc đột kích của lực lượng đặc nhiệm thất bại trong việc giải cứu các con tin, với tám binh sĩ Mỹ thiệt mạng trong một tai nạn máy bay ở sa mạc Iran.
Carter's final ignominy was that Iran held the 52 hostages until minutes after Reagan took his oath of office on Jan. 20, 1981, to replace Carter, then released the planes carrying them to freedom.
- Sự nhục nhã cuối cùng của Carter là Iran giữ 52 con tin cho đến khi Reagan tuyên thệ nhậm chức tổng thống vào ngày 20 tháng 1 năm 1981 để thay thế Carter, sau đó thả các máy bay chở họ đến tự do.
Carter won narrow Senate approval in 1978 of a treaty to transfer the Panama Canal to the control of Panama despite critics who argued the waterway was vital to American security. He also completed negotiations on full U.S. ties with China.
- Carter đã giành được sự chấp thuận hẹp của Thượng viện vào năm 1978 cho một hiệp ước chuyển Kênh đào Panama sang quyền kiểm soát của Panama mặc dù có những người chỉ trích cho rằng con đường thủy này rất quan trọng đối với an ninh của Mỹ. Ông cũng hoàn tất các cuộc đàm phán về quan hệ đầy đủ của Mỹ với Trung Quốc.
Carter created two new U.S. Cabinet departments - education and energy. Amid high gas prices, he said America's "energy crisis" was "the moral equivalent of war" and urged the country to embrace conservation. "Ours is the most wasteful nation on earth," he told Americans in 1977.
- Carter đã tạo ra hai bộ mới trong nội các Mỹ - giáo dục và năng lượng. Giữa lúc giá xăng cao, ông nói cuộc "khủng hoảng năng lượng" của Mỹ là "tương đương đạo đức của chiến tranh" và kêu gọi đất nước chấp nhận bảo tồn. "Chúng ta là quốc gia lãng phí nhất trên trái đất," ông nói với người Mỹ vào năm 1977.
In 1979, Carter delivered what became known as his "malaise" speech to the nation, although he never used that word.
- Năm 1979, Carter đã có bài phát biểu mà sau này được biết đến như bài phát biểu "malaise" tới quốc gia, mặc dù ông không bao giờ sử dụng từ đó.
"After listening to the American people I have been reminded again that all the legislation in the world can't fix what's wrong with America," he said in his televised address.
- "Sau khi lắng nghe người dân Mỹ, tôi lại được nhắc nhở rằng tất cả các luật pháp trên thế giới không thể sửa chữa những gì sai trái với nước Mỹ," ông nói trong bài phát biểu truyền hình của mình.
"The threat is nearly invisible in ordinary ways. It is a crisis of confidence. It is a crisis that strikes at the very heart and soul and spirit of our national will. The erosion of our confidence in the future is threatening to destroy the social and the political fabric of America."
- "Mối đe dọa gần như vô hình trong những cách thông thường. Đó là một cuộc khủng hoảng niềm tin. Đó là một cuộc khủng hoảng đánh vào trái tim và linh hồn và tinh thần của ý chí quốc gia của chúng ta. Sự xói mòn niềm tin của chúng ta vào tương lai đang đe dọa phá hủy kết cấu xã hội và chính trị của nước Mỹ."
As president, the strait-laced Carter was embarrassed by the behavior of his hard-drinking younger brother, Billy Carter, who had boasted: "I got a red neck, white socks, and Blue Ribbon beer."
- Là tổng thống, Carter nghiêm nghị đã xấu hổ bởi hành vi của em trai mình, Billy Carter, người uống rượu nhiều và từng khoe khoang: "Tôi có một cái cổ đỏ, tất trắng và bia Blue Ribbon."
'There you go again'
- 'There you go again'
Jimmy Carter withstood a challenge from Massachusetts Senator Edward Kennedy for the 1980 Democratic presidential nomination but was politically diminished heading into his general election battle against a vigorous Republican adversary.
- Jimmy Carter đã chịu đựng một thách thức từ thượng nghị sĩ Massachusetts Edward Kennedy cho đề cử tổng thống của đảng Dân chủ năm 1980 nhưng đã bị suy yếu về mặt chính trị khi bước vào cuộc chiến bầu cử chung của mình với đối thủ đảng Cộng hòa mạnh mẽ.
Reagan, the conservative who projected an image of strength, kept Carter off balance during their debates before the November 1980 election.
- Reagan, người bảo thủ đã thể hiện hình ảnh của một người mạnh mẽ, đã giữ Carter không vững trong các cuộc tranh luận của họ trước cuộc bầu cử tháng 11 năm 1980.
Reagan dismissively told Carter, "There you go again," when the Republican challenger felt the president had misrepresented Reagan's views during one debate.
- Reagan đã nói một cách khinh thường với Carter, "There you go again," khi đối thủ đảng Cộng hòa cảm thấy tổng thống đã trình bày sai quan điểm của Reagan trong một cuộc tranh luận.
Carter lost the 1980 election to Reagan, who won 44 of the 50 states and amassed an Electoral College landslide.
- Carter đã thua cuộc bầu cử năm 1980 trước Reagan, người đã giành chiến thắng ở 44 trong số 50 bang và giành được một cuộc bầu cử áp đảo của Đại cử tri đoàn.
James Earl Carter Jr. was born on Oct. 1, 1924, in Plains, Georgia, one of four children of a farmer and shopkeeper. He graduated from the U.S. Naval Academy in 1946, served in the nuclear submarine program and left to manage the family peanut farming business.
- James Earl Carter Jr. sinh ngày 1 tháng 10 năm 1924 tại Plains, Georgia, là một trong bốn đứa con của một nông dân và chủ cửa hàng. Ông tốt nghiệp Học viện Hải quân Mỹ năm 1946, phục vụ trong chương trình tàu ngầm hạt nhân và rời đi để quản lý công việc kinh doanh trồng đậu phộng của gia đình.
He married his wife, Rosalynn, in 1946, a union he called "the most important thing in my life." They had three sons and a daughter.
- Ông kết hôn với vợ mình, Rosalynn, vào năm 1946, một cuộc hôn nhân mà ông gọi là "điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi." Họ có ba con trai và một con gái.
Carter became a millionaire, a Georgia state legislator and Georgia's governor from 1971 to 1975. He mounted an underdog bid for the 1976 Democratic presidential nomination, and out-hustled his rivals for the right to face Ford in the general election.
- Carter trở thành triệu phú, là nhà lập pháp bang Georgia và là thống đốc bang Georgia từ năm 1971 đến năm 1975. Ông đã tiến hành một cuộc chạy đua bất ngờ cho đề cử tổng thống của đảng Dân chủ năm 1976 và vượt qua các đối thủ của mình để giành quyền đối mặt với Ford trong cuộc bầu cử chung.
With Walter Mondale as his vice presidential running mate, Carter was given a boost by a major Ford gaffe during one of their debates. Ford said that "there is no Soviet domination of Eastern Europe and there never will be under a Ford administration," despite decades of just such domination.
- Với Walter Mondale là ứng cử viên phó tổng thống của mình, Carter đã được thúc đẩy bởi một sai lầm lớn của Ford trong một cuộc tranh luận của họ. Ford đã nói rằng "không có sự thống trị của Liên Xô ở Đông Âu và sẽ không bao giờ có dưới một chính quyền Ford," mặc dù đã có hàng thập kỷ thống trị như vậy.
Carter edged Ford in the election, even though Ford actually won more states - 27 to Carter's 23.
- Carter đã chiến thắng Ford trong cuộc bầu cử, mặc dù Ford thực sự giành được nhiều bang hơn - 27 so với 23 của Carter.
Not all of Carter's post-presidential work was appreciated. Former President George W. Bush and his father, former President George H.W. Bush, both Republicans, were said to have been displeased by Carter's freelance diplomacy in Iraq and elsewhere.
- Không phải tất cả công việc sau khi làm tổng thống của Carter đều được đánh giá cao. Cựu Tổng thống George W. Bush và cha của ông, cựu Tổng thống George H.W. Bush, cả hai đều là đảng viên Cộng hòa, được cho là không hài lòng với sự ngoại giao tự do của Carter ở Iraq và những nơi khác.
In 2004, Carter called the Iraq war launched in 2003 by the younger Bush one of the most "gross and damaging mistakes our nation ever made." He called George W. Bush's administration "the worst in history" and said Vice President Dick Cheney was "a disaster for our country."
- Năm 2004, Carter gọi cuộc chiến Iraq khởi xướng năm 2003 bởi Bush con là một trong những "sai lầm khủng khiếp và gây tổn hại nhất mà quốc gia chúng ta từng mắc phải." Ông gọi chính quyền của George W. Bush là "tồi tệ nhất trong lịch sử" và nói rằng Phó Tổng thống Dick Cheney là "thảm họa cho đất nước chúng ta."
In 2019, Carter questioned Republican Donald Trump's legitimacy as president, saying "he was put into office because the Russians interfered on his behalf." Trump responded by calling Carter "a terrible president."
- Năm 2019, Carter đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa Donald Trump, nói rằng "ông ấy được đưa vào chức vụ vì người Nga đã can thiệp thay mặt ông ấy." Trump đáp lại bằng cách gọi Carter là "một tổng thống tồi tệ."
But Carter irked Democratic President Bill Clinton's administration by announcing the deal with North Korea's leader without first checking with Washington.
- Nhưng Carter đã làm phật lòng chính quyền của Tổng thống thuộc đảng Dân chủ Bill Clinton bằng cách tuyên bố thỏa thuận với lãnh đạo Triều Tiên mà không kiểm tra trước với Washington.
In 2010, Carter won the release of an American sentenced to eight years hard labor for illegally entering North Korea.
- Năm 2010, Carter đã giành được sự phóng thích của một người Mỹ bị kết án tám năm lao động khổ sai vì vào Triều Tiên bất hợp pháp.
Carter wrote more than two dozen books, ranging from a presidential memoir to a children's book and poetry, as well as works about religious faith and diplomacy. His book "Faith: A Journey for All," was published in 2018.
- Carter đã viết hơn hai tá sách, từ hồi ký tổng thống đến sách dành cho trẻ em và thơ ca, cũng như các tác phẩm về đức tin tôn giáo và ngoại giao. Cuốn sách "Faith: A Journey for All" của ông được xuất bản năm 2018.