International students increasingly choose Vietnam
October 01, 2024
The number of international students coming to Vietnam for self-funded education is steadily rising, with the majority from Laos, Cambodia, China, South Korea, and Singapore.
- Số lượng sinh viên quốc tế đến Việt Nam để tự túc học tập đang tăng đều đặn, với phần lớn đến từ Lào, Campuchia, Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore.
A study conducted earlier this year among 120 universities in Vietnam and over 30 experts, found that international students fall into two main categories: short-term students (for summer courses, exchanges, etc.) and long-term students (for four-year bachelor’s programs or two-year master’s programs). Each year, approximately 1,400–3,900 short-term and 4,300–5,000 long-term students are admitted.
- Một nghiên cứu được thực hiện vào đầu năm nay tại 120 trường đại học ở Việt Nam và hơn 30 chuyên gia cho thấy sinh viên quốc tế chia thành hai nhóm chính: sinh viên ngắn hạn (cho các khóa học mùa hè, trao đổi, v.v.) và sinh viên dài hạn (cho các chương trình cử nhân bốn năm hoặc thạc sĩ hai năm). Mỗi năm, khoảng 1.400–3.900 sinh viên ngắn hạn và 4.300–5.000 sinh viên dài hạn được nhận vào học.
"The number of international students declined slightly during the Covid-19 pandemic but has been rising again in the past two to three years, particularly in the self-funded category," said Pham Hiep, Director of the Institute for Research on Education and Knowledge Transfer at Thanh Do University in Hanoi.
- "Số lượng sinh viên quốc tế giảm nhẹ trong thời kỳ đại dịch Covid-19 nhưng đã tăng trở lại trong hai đến ba năm qua, đặc biệt là trong nhóm tự túc," ông Phạm Hiệp, Giám đốc Viện Nghiên cứu Giáo dục và Chuyển giao Tri thức tại Đại học Thành Đô ở Hà Nội cho biết.
Over the past five years, the number of long-term international students was 4,831 in 2019, which then dropped over two consecutive years to a low of 4,352, before increasing to 5,021. For short-term students, after a sharp decline in 2020, numbers have continuously risen, reaching 3,927, according to a study conducted by the Ministry of Education and Training and the British Council, presented by Hiep, a member of the research team, at a conference last week.
- Trong năm năm qua, số lượng sinh viên quốc tế dài hạn là 4.831 vào năm 2019, sau đó giảm trong hai năm liên tiếp xuống mức thấp nhất là 4.352, trước khi tăng lên 5.021. Đối với sinh viên ngắn hạn, sau khi giảm mạnh vào năm 2020, số lượng đã liên tục tăng, đạt 3.927, theo một nghiên cứu được Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội đồng Anh thực hiện, được ông Hiệp, thành viên của nhóm nghiên cứu, trình bày tại một hội nghị tuần trước.
Nguyen Xuan Vang, former Director of the International Cooperation Department under the Ministry of Education and Training, evaluated these results as encouraging. He noted that, in the past, most foreign students came to Vietnam under government-sponsored scholarship agreements. Today, however, the number of self-funded or partially self-funded international students is steadily increasing.
- Ông Nguyễn Xuân Vang, cựu Giám đốc Cục Hợp tác Quốc tế dưới Bộ Giáo dục và Đào tạo, đánh giá những kết quả này là đáng khích lệ. Ông lưu ý rằng, trong quá khứ, hầu hết sinh viên nước ngoài đến Việt Nam theo các thỏa thuận học bổng do chính phủ tài trợ. Tuy nhiên, ngày nay, số lượng sinh viên quốc tế tự túc hoặc một phần tự túc đang tăng đều.
International students come to Vietnam to study various fields, such as medicine, pharmacy, economics, business, as well as culture and languages. Students from Laos and Cambodia often choose medicine and pharmacy programs due to their high quality, which provides employment opportunities back home. Western students, on the other hand, typically enroll in exchange programs to study culture or Vietnamese studies, Vang added.
- Sinh viên quốc tế đến Việt Nam để học các lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như y học, dược, kinh tế, kinh doanh, cũng như văn hóa và ngôn ngữ. Sinh viên từ Lào và Campuchia thường chọn các chương trình y học và dược do chất lượng cao của chúng, điều này mang lại cơ hội việc làm khi trở về nước. Ngược lại, sinh viên phương Tây thường đăng ký các chương trình trao đổi để học văn hóa hoặc nghiên cứu Việt Nam, ông Vang bổ sung.
According to the study, the top five countries with the most long-term students in Vietnam are Laos, Cambodia, China, South Korea, and Singapore. The top five countries sending the most short-term students are South Korea, China, Singapore, the Philippines, and France.
- Theo nghiên cứu, năm quốc gia hàng đầu có nhiều sinh viên dài hạn nhất tại Việt Nam là Lào, Campuchia, Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore. Năm quốc gia gửi nhiều sinh viên ngắn hạn nhất là Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Philippines và Pháp.
One reason for this growing trend is that Vietnamese universities have joined international student mobility programs, launched advanced training courses, and increasingly use English as the language of instruction. Additionally, Asia is becoming a more popular destination for international students. Besides earning degrees, students also seek cultural experiences to broaden their employment prospects.
- Một lý do cho xu hướng này là các trường đại học Việt Nam đã tham gia các chương trình di chuyển sinh viên quốc tế, khởi động các khóa đào tạo nâng cao và ngày càng sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy. Ngoài ra, châu Á đang trở thành điểm đến phổ biến hơn cho sinh viên quốc tế. Bên cạnh việc lấy bằng, sinh viên còn tìm kiếm trải nghiệm văn hóa để mở rộng triển vọng việc làm.
Vang believes that international students contribute to Vietnam’s economic growth, cultural exchange, increased political influence, and foster greater understanding of Vietnam among international communities.
- Ông Vang tin rằng sinh viên quốc tế đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, trao đổi văn hóa, tăng cường ảnh hưởng chính trị và thúc đẩy sự hiểu biết lớn hơn về Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Tran Thi Ly, a lecturer at Deakin University in Australia, noted that this trend also enhances the internationalization of Vietnamese higher education and improves university rankings. Domestic students benefit from developing their English skills and learning in a multicultural environment. Moreover, it provides opportunities for teachers to innovate and internationalize their curricula.
- Bà Trần Thị Ly, giảng viên tại Đại học Deakin ở Úc, lưu ý rằng xu hướng này cũng nâng cao quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam và cải thiện xếp hạng các trường đại học. Sinh viên trong nước được lợi từ việc phát triển kỹ năng tiếng Anh và học trong môi trường đa văn hóa. Hơn nữa, nó cung cấp cơ hội cho giáo viên đổi mới và quốc tế hóa chương trình giảng dạy.
"International students will become cultural ambassadors, promoting Vietnam abroad. Additionally, their tuition revenue helps support universities," Ly said.
- "Sinh viên quốc tế sẽ trở thành những đại sứ văn hóa, quảng bá Việt Nam ra nước ngoài. Ngoài ra, học phí của họ giúp hỗ trợ các trường đại học," bà Ly nói.
For decades, Vietnam has been the third-largest net exporter of students, with 129,000 Vietnamese studying abroad, far exceeding the number of foreign students studying in Vietnam. Singapore and Malaysia faced a similar situation in the early 2000s but have since moved towards balance and are now net importers, attracting large numbers of students.
- Trong nhiều thập kỷ, Việt Nam là nước xuất khẩu sinh viên lớn thứ ba, với 129.000 sinh viên Việt Nam du học, vượt xa số lượng sinh viên nước ngoài học tập tại Việt Nam. Singapore và Malaysia đã đối mặt với tình hình tương tự vào đầu những năm 2000 nhưng đã chuyển hướng cân bằng và hiện là nước nhập khẩu ròng, thu hút số lượng lớn sinh viên.
To further establish Vietnam as an international education destination, Hiep suggested developing more training programs in English or other languages, improving facilities like dormitories, and offering opportunities for students to engage with associations or connection hubs. Additionally, the government should implement a more targeted strategy for internationalizing education, such as setting goals for international student enrollment, allowing foreign universities to open campuses in Vietnam, and introducing favorable visa policies.
- Để tiếp tục thiết lập Việt Nam như một điểm đến giáo dục quốc tế, ông Hiệp đề xuất phát triển thêm các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ khác, cải thiện cơ sở vật chất như ký túc xá và cung cấp cơ hội cho sinh viên tham gia vào các hiệp hội hoặc trung tâm kết nối. Ngoài ra, chính phủ nên thực hiện một chiến lược cụ thể hơn để quốc tế hóa giáo dục, chẳng hạn như đặt mục tiêu tuyển sinh sinh viên quốc tế, cho phép các trường đại học nước ngoài mở cơ sở tại Việt Nam và giới thiệu các chính sách visa thuận lợi.