American veteran journalist hails Vietnam's 50-year journey from isolation to global player

  • Nhà báo kỳ cựu người Mỹ ca ngợi hành trình 50 năm của Việt Nam từ cô lập đến vị thế toàn cầu

September 05, 2025

Murray Hiebert, an American journalist and leading Asia expert, has observed Vietnam's evolution from a war-torn nation to a dynamic global player over more than half a century, noting that the changes have occurred much more rapidly than he ever expected.

  • Murray Hiebert, một nhà báo người Mỹ và chuyên gia hàng đầu về Châu Á, đã quan sát sự phát triển của Việt Nam từ một quốc gia bị chiến tranh tàn phá đến một người chơi năng động trên toàn cầu trong hơn nửa thế kỷ, lưu ý rằng sự thay đổi đã diễn ra nhanh hơn nhiều so với ông từng mong đợi.

Hiebert is a senior adviser at the Center for Strategic and International Studies (CSIS) in Washington, D.C., where he previously served as deputy director of the Southeast Asia Program for six years. He is currently the Head of Research at the Bower Asia Policy Advisory Group and has maintained a long-standing connection with Vietnam for nearly five decades.

  • Hiebert là cố vấn cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, D.C., nơi ông từng giữ chức phó giám đốc Chương trình Đông Nam Á trong sáu năm. Hiện tại, ông là Trưởng bộ phận Nghiên cứu tại Nhóm Tư vấn Chính sách Châu Á Bower và duy trì mối liên hệ lâu dài với Việt Nam gần năm thập kỷ.

He first visited Hanoi in 1976 at the age of 33, when he was a journalist. Even then, he could feel the immense challenges Vietnam faced in rebuilding after the war. Hiebert had served as a correspondent for the Far Eastern Economic Review across Southeast Asia and later as the Asia correspondent for The Wall Street Journal, closely following Vietnam's journey from isolation to global integration.

  • Ông lần đầu tiên đến Hà Nội vào năm 1976 khi 33 tuổi, khi ông còn là một nhà báo. Ngay từ khi đó, ông đã cảm nhận được những thách thức to lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong việc tái thiết sau chiến tranh. Hiebert đã làm phóng viên cho Tạp chí Kinh tế Viễn Đông khắp Đông Nam Á và sau này là phóng viên Châu Á cho Tạp chí Phố Wall, theo sát hành trình của Việt Nam từ cô lập đến hội nhập toàn cầu.

In the early 1990s, Hiebert was based in Hanoi for the Far Eastern Economic Review, reporting on Vietnam's economic reforms and its opening to the world. He joined the Review's Bangkok bureau in 1986, covering political and economic developments in Vietnam, Cambodia, and Laos. He has authored two books on Vietnam, "Chasing the Tigers" and "Vietnam Notebook".

  • Vào đầu những năm 1990, Hiebert đóng tại Hà Nội cho Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, đưa tin về các cải cách kinh tế của Việt Nam và việc mở cửa ra thế giới. Ông đã tham gia vào văn phòng Bangkok của tạp chí này vào năm 1986, đưa tin về các phát triển chính trị và kinh tế ở Việt Nam, Campuchia và Lào. Ông đã viết hai cuốn sách về Việt Nam, "Chasing the Tigers" và "Vietnam Notebook".

Expert Murray Hiebert speaks during a working session with the US Senate Foreign Relations Committee in 2017. Photo by CSIS

Murray Hiebert speaks during a working session with the Senate Committee on Foreign Relations Subcommittee on East Asia, the Pacific, and International Cybersecurity Policy in 2017. Photo by the Center for Strategic and International Studies

  • Murray Hiebert phát biểu trong một phiên làm việc với Tiểu ban Quan hệ Đối ngoại Thượng viện về Đông Á, Thái Bình Dương và Chính sách An ninh Mạng Quốc tế vào năm 2017. Ảnh bởi Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế

In a recent interview with VnExpress, Hiebert reflected on Vietnam's integration and development, drawing on his extensive experience both as a foreign journalist based in Hanoi and as a leading expert on Southeast Asia.

  • Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với VnExpress, Hiebert đã suy ngẫm về quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam, dựa trên kinh nghiệm phong phú của ông cả khi là một nhà báo nước ngoài đóng tại Hà Nội và là một chuyên gia hàng đầu về Đông Nam Á.

From your first visit to Vietnam to your most recent return, what changes have you observed?

  • Từ lần đầu tiên ông đến Việt Nam đến lần gần đây nhất ông trở lại, ông đã quan sát thấy những thay đổi gì?

My first visit to Vietnam was in June 1976, just 13 months after the war ended. At that time, Hanoi was very poor, with many areas of Kham Thien Street still a wreck. Nothing worked very well. The lights didn't work very well and the electricity was unstable.

  • Lần đầu tiên tôi đến Việt Nam là vào tháng 6 năm 1976, chỉ 13 tháng sau khi chiến tranh kết thúc. Lúc đó, Hà Nội rất nghèo, với nhiều khu vực trên phố Khâm Thiên vẫn còn đổ nát. Mọi thứ hoạt động không tốt lắm. Đèn không sáng ổn định và điện không ổn định.

The main form of transport was bicycles. Everybody else was on bicycles, and there must have been a million of them. There were only a few Soviet-made Ladas for government officials or diplomats. Food was scarce, and people were very poor, as their clothes were patched together and very simple, mostly black or gray. But I understood what had happened, given that Vietnam had just emerged from the war.

  • Phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp. Mọi người đều đi xe đạp, và chắc chắn có cả triệu chiếc xe đạp. Chỉ có một vài chiếc Lada do Liên Xô sản xuất cho các quan chức chính phủ hoặc nhà ngoại giao. Thực phẩm khan hiếm, và người dân rất nghèo, quần áo của họ chắp vá và rất đơn giản, chủ yếu là màu đen hoặc xám. Nhưng tôi hiểu những gì đã xảy ra, vì Việt Nam vừa mới thoát khỏi chiến tranh.

Diplomats stayed in hotels like the Metropole, which was very run-down. They had their bedroom and office there. United Nations offices were in there. Some also stayed at the Thang Loi Hotel near the West Lake.

  • Các nhà ngoại giao ở trong các khách sạn như Metropole, rất xuống cấp. Họ có phòng ngủ và văn phòng ở đó. Các văn phòng của Liên Hiệp Quốc cũng ở đó. Một số khác cũng ở khách sạn Thắng Lợi gần Hồ Tây.

Today, Vietnam has built up and rebuilt itself. Both Hanoi and Ho Chi Minh City have completely transformed in terms of infrastructure, each with its own metro line. It's a totally different atmosphere. There's a lot of enthusiasm. The last time I visited in 2023, there were many cars and motorcycles, and a lot of very good restaurants. They could tell the road to modernization was going to be very hard and slow, but I think it happened faster than many people thought.

  • Ngày nay, Việt Nam đã xây dựng và tái thiết. Cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đều hoàn toàn thay đổi về cơ sở hạ tầng, mỗi nơi đều có tuyến metro riêng. Bầu không khí hoàn toàn khác. Có rất nhiều sự hào hứng. Lần cuối tôi đến vào năm 2023, có rất nhiều ô tô và xe máy, và rất nhiều nhà hàng rất tốt. Họ có thể thấy con đường hiện đại hóa sẽ rất khó khăn và chậm chạp, nhưng tôi nghĩ nó đã diễn ra nhanh hơn nhiều so với nhiều người nghĩ.

So it's very different now, and you can see the confidence among officials and staff when you go into a government ministry. There's so much confidence, as many of them have received high-level education abroad. Actually, to think of where Vietnam was in 1975 and where it is in 2025, it's the difference between night and day, or Mars and Venus.

  • Vì vậy, bây giờ rất khác, và bạn có thể thấy sự tự tin giữa các quan chức và nhân viên khi bạn vào một bộ chính phủ. Có rất nhiều sự tự tin, vì nhiều người trong số họ đã được đào tạo ở nước ngoài ở trình độ cao. Thực tế, để nghĩ rằng Việt Nam đã ở đâu vào năm 1975 và ở đâu vào năm 2025, đó là sự khác biệt giữa ngày và đêm, hoặc sao Hỏa và sao Kim.

In the 1990s, you were an Asia correspondent, covering Vietnam during its attempts to break free from isolation and integrate into the region. What memories stand out from that time?

  • Vào những năm 1990, ông là một phóng viên Châu Á, đưa tin về Việt Nam trong nỗ lực thoát khỏi cô lập và hội nhập vào khu vực. Những kỷ niệm nào nổi bật từ thời đó?

One interesting story is from around 1993-1994, when Scott Marciel, who was the first diplomat from the State Department to come to Hanoi. He was unable to transfer money through banks because there was a trade embargo and all the sanctions against Vietnam. He had to carry in himself all the cash he needed for food and transportation from Bangkok. That told the story of how isolated the U.S. and Vietnam were from each other at that timeso different from now, where we obviously can use credit cards or money transfer.

  • Một câu chuyện thú vị là khoảng năm 1993-1994, khi Scott Marciel, người là nhà ngoại giao đầu tiên từ Bộ Ngoại giao đến Hà Nội. Ông không thể chuyển tiền qua ngân hàng vì có lệnh cấm vận thương mại và tất cả các biện pháp trừng phạt đối với Việt Nam. Ông phải tự mang theo tất cả số tiền mặt cần thiết cho thực phẩm và phương tiện di chuyển từ Bangkok. Điều đó kể câu chuyện về việc Hoa Kỳ và Việt Nam đã bị cô lập với nhau như thế nào vào thời điểm đó - rất khác so với bây giờ, khi chúng ta rõ ràng có thể sử dụng thẻ tín dụng hoặc chuyển tiền.

In the early 1990s, Vietnam was opening up but was still under embargo. The Cambodia issue had just been resolved, and the conflict with China wasn't entirely settled. The U.S. was moving slowly to lift sanctions and normalize relations with Vietnam. Afterward, it really did take a while for Vietnam to integrate into ASEAN. Each of these steps was a long road, and you couldn't just snap your fingers and say, "Now we've normalized relations." There were many challenges, and it took time to actually establish trade and investment. It wasn't as easy as it may seem now. On paper, the formal agreements were in place, but the practicalities were a bumpy road.

  • Vào đầu những năm 1990, Việt Nam đang mở cửa nhưng vẫn bị cấm vận. Vấn đề Campuchia vừa được giải quyết, và xung đột với Trung Quốc chưa hoàn toàn được giải quyết. Hoa Kỳ đang di chuyển chậm để dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Sau đó, thực sự đã mất một thời gian để Việt Nam hội nhập vào ASEAN. Mỗi bước đi này đều là một chặng đường dài, và bạn không thể chỉ búng ngón tay và nói, "Bây giờ chúng ta đã bình thường hóa quan hệ." Có rất nhiều thách thức, và mất thời gian để thực sự thiết lập thương mại và đầu tư. Điều đó không dễ như bây giờ có vẻ. Trên giấy tờ, các thỏa thuận chính thức đã có, nhưng thực tế là một con đường gập ghềnh.

I was there in Hanoi when the embargo was lifted in 1994, and it was a big celebration. People were enthusiastic, seeing it as another step toward normalizing relations with the world. Coca-Cola even put up a big balloon, about four or five meters tall, in front of the Opera House. It was around that circle, and everyone passing by saw a giant Coke bottle. It was kind of funny.

  • Tôi đã ở đó tại Hà Nội khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ vào năm 1994, và đó là một sự kiện lớn. Mọi người rất hào hứng, xem đó như một bước tiến nữa hướng tới bình thường hóa quan hệ với thế giới. Coca-Cola thậm chí còn đặt một quả bóng bay lớn, khoảng bốn hoặc năm mét cao, trước Nhà hát Lớn. Nó xung quanh vòng tròn đó, và mọi người đi qua đều thấy một chai Coke khổng lồ. Điều đó thật buồn cười.

Because the normalization process was a bit slow and difficult, I thought U.S.-Vietnam relations would move slowly. The U.S. finally set up an embassy in 1995, but even after that, progress was slow. The 1997-1998 Asian financial crisis also slowed things down, as the ASEAN region was hit hard. There was a lot of concern about how the relationship would develop, which really slowed the process. It took some years before things started to take off.

  • Vì quá trình bình thường hóa hơi chậm và khó khăn, tôi nghĩ quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam sẽ tiến triển chậm. Hoa Kỳ cuối cùng đã thiết lập một đại sứ quán vào năm 1995, nhưng ngay cả sau đó, tiến độ cũng chậm. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998 cũng làm chậm quá trình, vì khu vực ASEAN bị ảnh hưởng nặng nề. Có rất nhiều lo ngại về việc mối quan hệ sẽ phát triển như thế nào, điều này thực sự làm chậm quá trình. Phải mất vài năm trước khi mọi thứ bắt đầu khởi sắc.

I'm not sure exactly when, but certainly by the 2000s, things began to move, and by the 2010s, diplomatic exchanges really picked up, with relations gaining momentum. The bilateral trade agreement had been signed, companies were coming in, and many U.S. businesses became more interested in Vietnam.

  • Tôi không chắc chính xác khi nào, nhưng chắc chắn vào những năm 2000, mọi thứ bắt đầu di chuyển, và vào những năm 2010, các trao đổi ngoại giao thực sự đã gia tăng, với mối quan hệ ngày càng mạnh mẽ. Hiệp định thương mại song phương đã được ký kết, các công ty đã đến, và nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ đã trở nên quan tâm hơn đến Việt Nam.

Now, the two countries have upgraded their relationship to a Comprehensive Strategic Partnership. I wasn't sure when that would happenI certainly didn't expect it in 2023but it happened much more quickly than I thought.

  • Bây giờ, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tôi không chắc khi nào điều đó sẽ xảy ra - tôi chắc chắn không mong đợi nó vào năm 2023 - nhưng nó đã xảy ra nhanh hơn nhiều so với tôi nghĩ.

US Ambassador Douglas Pete Peterson speaks in Hanoi on May 9, 1997, upon arriving to take up his first ambassadorial duties in Vietnam after the two countries normalized relations. Photo by AFP

US ambassador to Vietnam Douglas Peterson delivers a statement to the press and a crowd of one hundred Vietnamese and Americans attending a welcoming ceremony held at Hanoi airport May 9, 1997. Peterson, a former Vietnam war veteran, is the first U.S. ambassador to Vietnam since the end of the Vietnam War in 1975. Photo by AFP

  • Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Douglas Peterson phát biểu trước báo chí và hàng trăm người Việt Nam và người Mỹ tham dự lễ đón tổ chức tại sân bay Hà Nội ngày 9 tháng 5 năm 1997. Peterson, một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, là đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975. Ảnh của AFP

Looking back on Vietnam's journey from a nation under siege and embargo to being an active member of ASEAN and a strategic partner of the five permanent members of the United Nations Security Council, what is your assessment?

  • Nhìn lại hành trình của Việt Nam từ một quốc gia bị bao vây và cấm vận đến thành viên tích cực của ASEAN và là đối tác chiến lược của năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ông đánh giá như thế nào?

Among the great powers, there is a lot of tension, but Vietnam has managed to balance between these powers effectively. I was very surprised that it worked.

  • Giữa các cường quốc, có rất nhiều căng thẳng, nhưng Việt Nam đã quản lý để cân bằng giữa các cường quốc này một cách hiệu quả. Tôi rất ngạc nhiên rằng điều đó đã thành công.

Vietnam has been proactive in its relationships with major powers, especially with China, the U.S., and even European countries. Vietnam is very active in trying to build trade relations and expand its ties.

  • Việt Nam đã rất chủ động trong các mối quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là với Trung Quốc, Hoa Kỳ, và thậm chí là các nước Châu Âu. Việt Nam rất năng động trong việc xây dựng các mối quan hệ thương mại và mở rộng quan hệ của mình.

This is a "multidirectional" foreign policy, and Vietnam's approach has been very well conceived and very well received. Vietnam's diplomatic achievements have truly surprised people, reflecting its strategic thinking and proactivity. In the places where I've lived and worked, they now look carefully at what Vietnam is doing.

  • Đây là một chính sách ngoại giao "đa phương", và cách tiếp cận của Việt Nam đã được suy nghĩ rất kỹ lưỡng và rất được đón nhận. Các thành tựu ngoại giao của Việt Nam thực sự đã làm mọi người ngạc nhiên, phản ánh suy nghĩ chiến lược và sự chủ động của mình. Ở những nơi tôi đã sống và làm việc, họ bây giờ nhìn rất cẩn thận vào những gì Việt Nam đang làm.

In Washington, it's quite a difficult place for an embassy to be noticed, but Vietnam is incredibly dynamic. Many people have shared with me, "Oh, I don't know how Vietnam has so many contacts on Capitol Hill and all the departments of the government."

  • Ở Washington, đó là một nơi khá khó khăn để một đại sứ quán được chú ý, nhưng Việt Nam rất năng động. Nhiều người đã chia sẻ với tôi, "Ồ, tôi không biết làm thế nào mà Việt Nam có nhiều liên lạc như vậy trên Đồi Capitol và tất cả các bộ phận của chính phủ."

And I say, I don't know, they're just very active. "You guys sit in the embassy and wait for that sun to shine and the Vietnamese just get out there and walk on the pavement and go meet people and they see that also in economic terms."

  • Và tôi nói, tôi không biết, họ chỉ rất năng động. "Các bạn ngồi trong đại sứ quán và chờ mặt trời chiếu sáng và người Việt chỉ ra ngoài và đi bộ trên vỉa hè và đi gặp mọi người và họ thấy điều đó cũng trong các điều khoản kinh tế."

There's a lot of envy about how Vietnam has managed to grow so fast and have so many economic partners, many trade agreements, many more than their neighbors.

  • Có rất nhiều sự ghen tị về cách Việt Nam đã quản lý để phát triển nhanh chóng và có nhiều đối tác kinh tế, nhiều hiệp định thương mại, nhiều hơn nhiều so với các nước láng giềng của họ.

Companies that go across Southeast Asia looking for where to invest often end up settling in Vietnam.

  • Các công ty đi qua Đông Nam Á tìm kiếm nơi để đầu tư thường cuối cùng lại quyết định đầu tư vào Việt Nam.

Companies choose to invest in Vietnam partially because the Vietnamese are very good at recognizing what the company wants. While some other countries just wait, Vietnam doesn't let a company leave without trying every possible approach and convincing them to return to the negotiation table. It's economic diplomacy.

  • Các công ty chọn đầu tư vào Việt Nam một phần vì người Việt rất giỏi trong việc nhận ra những gì công ty muốn. Trong khi một số quốc gia khác chỉ chờ đợi, Việt Nam không để một công ty rời đi mà không thử mọi cách có thể và thuyết phục họ quay lại bàn đàm phán. Đó là ngoại giao kinh tế.
View the original post here .